**..Chia sẻ kinh nghiệm..**
Chào mừng bạn đã ghé thăm websiteChúc bạn 1 ngày tốt lành.

Bạn hãy đăng ký làm thành viên để co thể xem được những liên kết
cần thiết tại diễn đàn.Wellcom to my home

**..Chia sẻ kinh nghiệm..**
Chào mừng bạn đã ghé thăm websiteChúc bạn 1 ngày tốt lành.

Bạn hãy đăng ký làm thành viên để co thể xem được những liên kết
cần thiết tại diễn đàn.Wellcom to my home

**..Chia sẻ kinh nghiệm..**
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

**..Chia sẻ kinh nghiệm..**


 
Trang ChínhTrang Chính  GalleryGallery  Tìm kiếmTìm kiếm  Latest imagesLatest images  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  

 

 dinh luat luong-chat voi qua trinh gia nhap WTO cua viet nam

Go down 
Tác giảThông điệp
Admin
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 52
Điểm : 2147483645
Danh tiếng : -1
Join date : 09/11/2011
Age : 30
Đến từ : bac ninh

dinh luat luong-chat voi qua trinh gia nhap WTO cua viet nam Empty
Bài gửiTiêu đề: dinh luat luong-chat voi qua trinh gia nhap WTO cua viet nam   dinh luat luong-chat voi qua trinh gia nhap WTO cua viet nam I_icon_minitimeWed Nov 16, 2011 10:38 am

Moi nguoi tam thoi tham khao cai nay da nhe.moi chi co qua trinh gia nhap thui.co gi minh lai update sau vay.
I love you I love you THAO NGOC'S WIFE FOREVER I love you I love you


Tiến trình đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) của Việt Nam đã trải qua một chặng đường dài đầy gian nan, vất vả và giờ đây sắp đến hồi kết. Vấn đề Việt Nam sẽ trở thành thành viên chính thức của WTO chỉ còn là thời gian và sẽ là sự kiện kinh tế- chính trị rất quan trọng đang thu hút sự quan tâm theo dõi của nhiều tầng lớp nhân dân trong xã hội, đặc biệt là các nhà quản lý và giới doanh nhân thuộc mọi thành phần kinh tế, cũng như các nhà đầu tư của nước ngoài.
Dư luận đón chờ sự kiện này với những quan điểm khác nhau. Một số người tỏ ra hết sức lạc quan và cho rằng đây là "cơ hội vàng", mà Đảng và nhân dân ta phải tranh thủ nắm lấy, tận dụng tối đa để đưa đất nước tiến lên. Ngược lại, cũng có ý kiến đề nghị cần phải cân nhắc kỹ lưỡng những lợi ích và thiệt hại khi chúng ta gia nhập WTO.
Đề cập vấn đề này, Báo cáo Chính trị trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã nêu rõ: "Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với chiến lược phát triển đất nước từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn đến 2020;... khai thác hiệu quả các cơ hội và giảm tối đa những thách thức, rủi ro khi Việt Nam là thành viên Tổ chức thương mại thế giới (WTO)"(1).
Như vậy, việc Việt Nam gia nhập WTO không còn là vấn đề phải bàn luận nên hay không mà quá trình này đã được Đảng, Nhà nước ta chuẩn bị kỹ lưỡng và chủ động thực hiện từ lâu. Vấn đề là chúng ta cần có cách nhìn khách quan, toàn diện, thấy được hết thời cơ, thuận lợi, đồng thời cũng nhận thức rõ những khó khăn, thách thức mới mà chủ động đối phó để không rơi vào tình thế bị động.
Trước hết, cần phải khẳng định rằng, gia nhập WTO là một xu thế tất yếu của nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Với chức năng tạo ra cơ chế điều tiết các hoạt động thương mại toàn cầu, WTO đã quy tụ 149 quốc gia, chiếm 93% tổng giá trị giao dịch thương mại toàn cầu. Vì vậy, việc trở thành thành viên của tổ chức này là điểm mốc quan trọng khẳng định sự hội nhập toàn diện một nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới và là dấu hiệu của một môi trường đầu tư hấp dẫn.
Gia nhập WTO, Việt Nam sẽ có điều kiện thuận lợi để tiếp cận thị trường thế giới và khu vực; thúc đẩy đầu tư trong và ngoài nước. Mặt khác, chúng ta sẽ có lợi thế hơn do việc cắt giảm thuế xuất khẩu đối với các sản phẩm cần nhiều nhân công vốn là thế mạnh của chúng ta, đặc biệt những ngành sử dụng nhiều lao động và có kim ngạch xuất khẩu khá cao như: dệt may, da giày, tiểu thủ công nghiệp, thực phẩm, thiết bị điện tử gia dụng, du lịch, xây dựng v.v. Theo đó, sự tăng trưởng kinh tế ở những lĩnh vực sản xuất này sẽ mang lại nhiều cơ hội việc làm và thu nhập cho một bộ phận không nhỏ người lao động và dân cư.
Bên cạnh đó, sức ép cạnh tranh giữa các lĩnh vực, các doanh nghiệp trong nước với nước ngoài sẽ tạo điều kiện để thị trường lao động phát triển, thúc đẩy người lao động phải nỗ lực vươn lên nâng cao trình độ, kỹ năng, ý thức lao động để thích ứng với những đòi hỏi của thị trường lao động. Xét trên bình diện xã hội, điều đó sẽ tạo ra sự dịch chuyển cơ cấu lao động theo hướng tích cực, không chỉ phát triển số lượng, mà cả chất lượng lao động để có thể theo kịp sự biến đổi chung của khu vực và quốc tế. Quan hệ cung cầu các yếu tố của quá trình tái sản xuất xã hội sẽ từng bước đạt đến những nấc thang cân bằng giữa các quốc gia, trong đó đặc biệt quan trọng là yếu tố tiền công giữa các nước và khu vực. Khoảng cách về thu nhập của lao động tại các nước trong khu vực sẽ được thu hẹp do kết quả của việc tăng trao đổi thương mại và luân chuyển vốn đầu tư.
Một điều nữa là, việc gia nhập WTO sẽ cho phép Việt Nam cải thiện vị trí của mình trong các cuộc đàm phán thương mại, có điều kiện tiếp cận các quy tắc công bằng và lợi thế hơn trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại. Chính từ những yêu cầu của WTO và các nghĩa vụ cam kết của nước ta về việc cải cách hệ thống ngoại thương, bảo đảm tính thống nhất, minh bạch của các chính sách thương mại và các đạo luật trong nước cho phù hợp với hệ thống thương mại quốc tế sẽ có những tác động tích cực đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Mặt khác, sức ép cạnh tranh quốc tế sẽ tạo ra động lực và cơ chế kích thích buộc các doanh nghiệp trong nước phải tích cực đổi mới và năng động để tồn tại. Chẳng hạn, việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất, thay đổi phương thức kinh doanh và nâng cao trình độ quản lý cho kịp với những đòi hỏi của thị trường. Qua đó, chúng ta sẽ có điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh mẽ thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường chứng khoán, thị trường khoa học - công nghệ, thị trường bất động sản và thị trường sức lao động… Đó là những tiền đề rất quan trọng để có thể chủ động tham gia quá trình toàn cầu hoá kinh tế, điều chỉnh chính sách vĩ mô mang tính ổn định và minh bạch, tạo cơ hội cho công cuộc đổi mới của Việt Nam đạt được những kết quả tốt đẹp hơn.
Tuy nhiên, cùng với những lợi ích trên đây, khi tham gia thị trường thế giới Việt Nam còn phải cam kết thực hiện các nghĩa vụ, mà điều đó có thể đem lại những bất lợi ban đầu, thậm chí cả rủi ro khi chúng ta chưa đủ sức chống đỡ. Thực trạng yếu kém về năng lực cạnh tranh của thị trường và doanh nghiệp trong nước hiện đang là trở ngại lớn trên con đường hội nhập của nền kinh tế Việt Nam với quốc tế. Có thể thấy rõ những bất lợi và tác động tiêu cực trên một số lĩnh vực chủ yếu như sau:
Đối với nông nghiệp: Đây là lĩnh vực tạo ra khoảng trên 60%, nếu đúng như dự báo chiến lược thì đến năm 2010 vẫn còn dưới 50% lực lượng lao động của toàn xã hội. Mặc dù khu vực này đóng góp vào GDP không lớn, nhưng lại giữ vai trò ổn định xã hội và đảm bảo thu nhập cho một bộ phận lớn dân cư nước ta sinh sống trên khắp mọi miền đất nước, từ biên giới đến hải đảo. Tuy nhiên, do trình độ sản xuất nông nghiệp ở nước ta còn lạc hậu nhiều so với khu vực và thế giới nên sắp tới sẽ chịu nhiều sức ép cạnh tranh. Việc tạo thuận lợi cho các nước thành viên WTO thâm nhập thị trường dưới hình thức giảm thuế nhập khẩu, trong khi một số nước phát triển, nhất là những nước đang nhập khẩu nhiều nông sản của Việt Nam, lại vẫn tiếp tục trợ cấp nông sản và duy trì một số rào cản xâm nhập thị trường hàng nông sản của họ. Đây sẽ là thách thức lớn đối với chúng ta.
Đối với lĩnh vực công nghiệp: Năng lực cạnh tranh yếu kém của các doanh nghiệp Việt Nam (kể cả doanh nghiệp nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân) đang là những bất lợi lớn nhất khi thực hiện tự do hoá thương mại. Thêm vào đó, việc cam kết thực hiện bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ (như phát minh, sáng chế, quyền tác giả, nhãn hiệu thương mại, các phần mềm máy tính..) bằng các thủ tục pháp lý trong nước đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế sẽ là một cản trở đáng kể trong việc tiếp thu và ứng dụng khoa học kỹ thuật – công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam. Sự bảo hộ của Nhà nước đối với một số ngành, lĩnh vực trong nước tới đây sẽ bị cắt giảm, loại bỏ. Để tồn tại và đứng vững trong cạnh tranh, không có cách nào khác, các doanh nghiệp phải tích cực đổi mới và tự vươn lên nếu không muốn chấp nhận phá sản hoặc cắt giảm sản xuất, sa thải nhân công, thua các đối thủ cạnh tranh trên sân nhà.
Đối với lĩnh vực thương mại và dịch vụ: Những năm qua, mặc dù ngành dịch vụ đã có những bước phát triển, song xét trên khía cạnh tiềm năng cũng như chuẩn mực phát triển quốc tế, dịch vụ nước ta lại là ngành kém phát triển nhất: chất lượng dịch vụ kém, năng lực cạnh tranh chưa cao; một số dịch vụ còn mang tính độc quyền; một số dịch vụ đang được Nhà nước bao cấp… Khi gia nhập WTO, những biện pháp bảo hộ đó sẽ dần dần bị giảm xuống hoặc bị xoá bỏ. Trong khi đó, Việt Nam sẽ phải mở cửa thị trường dịch vụ cho các nhà kinh doanh nước ngoài trong các lĩnh vực như: ngân hàng, bảo hiểm, vận tải, thông tin, kỹ thuật, tư vấn, luật sư…là những lĩnh vực nhạy cảm đối với nền kinh tế, dễ gây ra những hệ quả chính trị – xã hội khó lường.
Đối với lĩnh vực đầu tư: Bên cạnh những tác động tích cực không thể phủ nhận của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta, những tác động tiêu cực của quá trình này không phải là nhỏ, nếu không có biện pháp quản lý hữu hiệu để kết hợp hài hòa giữa lợi nhuận của các chủ đầu tư với bảo vệ môi trường sinh thái, và nhất là lợi ích của người lao động. Cần hết sức quan tâm việc hàng hoá và dịch vụ khu vực đầu tư nước ngoài ngày càng chiếm ưu thế so với khu vực kinh tế trong nước, nhưng công nghệ không tiên tiến, khi hết thời hạn đầu tư, doanh nghiệp trong nước sẽ không có được ưu thế về công nghệ và kỹ thuật quản lý tiên tiến. Việc lựa chọn cơ cấu sản xuất không hợp lý dẫn tới nguy cơ phụ thuộc của nền kinh tế nước ta vào các công ty xuyên quốc gia. Khi đó những hậu quả phải gánh chịu về kinh tế, chính trị, xã hội sẽ khôn lường.
Đối với cơ hội việc làm và thu nhập của người lao động: Bên cạnh những tác động tích cực như đã phân tích ở trên, việc gia nhập WTO sẽ làm biến đổi sâu sắc đến cơ cấu lao động và sự phân hoá thu nhập giữa các nhóm dân cư và lao động do cơ hội tiếp cận những điều kiện mới của hội nhập không giống nhau. Điều này sẽ dẫn đến tình trạng làm tăng khoảng cách giàu nghèo và tốc độ phân cực giữa các nhóm lao động, theo đó sẽ phân hoá khả năng tiếp cận các quyền lợi và địa vị xã hội, cũng như những điều kiện giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khoẻ, thưởng thức nghệ thuật, giao lưu xã hội...
Những nhân tố tiêu cực kể trên sẽ tác động làm cho các mối quan hệ lao động ngay sau khi nước ta gia nhập WTO có xu hướng phức tạp hơn, rất có thể dẫn đến việc các tranh chấp lao động tăng lên về số lượng và quy mô, phức tạp hơn về tính chất nếu như không có một hệ thống giải pháp đồng bộ nhằm bảo vệ một cách hiệu quả nhất lợi ích chính đáng của người lao động. Cần lưu ý rằng, Bộ luật Lao động đã có hiệu lực từ 11 năm nay (tháng 1 năm 1995), nhưng đã xảy ra 1.250 cuộc đình công lớn nhỏ và không có một cuộc đình công nào tuân theo các trình tự quy định của Bộ luật đó. Báo Nhân Dân đã nhận xét rất đúng rằng: "...đối tượng cần phàn nàn không chỉ là trình độ pháp luật của công nhân, mà cần xem xét vì sao luật chưa đi vào cuộc sống"(2). Ở đây có vấn đề ngay trong quy trình xây dựng pháp luật của nước ta, các chuyên gia thiết kế dự thảo các luật thường lại thuộc các cơ quan quản lý nhà nước và thực thi pháp luật, bởi vậy khó tránh khỏi khả năng làm luật theo hướng thuận tiện cho nhà quản lý hơn là công chúng – người chấp hành.
Để phát triển kinh tế, tận dụng thời cơ thuận lợi, chủ động khắc phục và hạn chế những nguy cơ, thách thức trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, trước mắt cần tập trung thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau đây:
Một là: Tuyên truyền rộng rãi cho nhân dân, đặc biệt là các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hiểu rõ nội dung, bản chất của quá trình gia nhập WTO để mọi người chuẩn bị các điều kiện chủ động và sẵn sàng tận dụng cơ hội mở ra, đồng thời ứng phó với những thách thức nảy sinh.
Hai là: Các cơ quan chức năng quản lý nhà nước cần khẩn trương xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp quy, nhất là những nội dung liên quan đến cam kết ghi trong thoả thuận về gia nhập. Tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, trước mắt là cụ thể hoá các đạo luật đã được thông qua, nhất là Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, đồng thời, đề ra các cơ chế, tiêu chuẩn quy phạm để bảo vệ lợi ích trong nước và lợi ích của người tiêu dùng phù hợp với khuôn khổ các quy định của WTO.
Ba là: Đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính, chống quan liêu, tham nhũng. Phải coi đây không chỉ là yêu cầu nội tại của đất nước, mà còn là đòi hỏi cấp bách cho quá trình hội nhập, nhất là việc ứng phó với những thách thức xuất phát từ chính bản thân chúng ta, như: quản lý lỏng lẻo để thất thoát lớn tài sản quốc gia, dân tộc; sử dụng kém hiệu quả các khoản vay nước ngoài để nợ xấu chồng chất, thua các đối thủ cạnh tranh vì những yếu kém về nhận thức và trình độ; thất bại trong các cuộc đàm phán và tranh chấp thương mại quốc tế...
Bốn là: Có kế hoạch khẩn trương đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực, chuẩn bị cho quá trình tiếp thu những thành tựu tiến bộ khoa học – kỹ thuật, công nghệ hiện đại, những kinh nghiệm quản lý tiên tiến… để đáp ứng yêu cầu của bộ máy quản lý đa năng và chuyên nghiệp hoá sau này. Chú trọng hơn nữa việc xây dựng đội ngũ giai cấp công nhân và bồi dưỡng dân trí cho các tầng lớp nhân dân lao động về tinh thần yêu nước, bảo vệ chế độ, giữ vững độc lập tự chủ, tự tôn dân tộc, nhất là bản sắc văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đây là những điều kiện hết sức quan trọng và không thể thiếu được, bảo đảm hội nhập hiệu quả mà không bị hòa tan khi gia nhập WTO.
Năm là: Đẩy mạnh quá trình tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, mà trọng tâm là cổ phần hoá. Chuẩn bị đầy đủ tiềm lực cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang những ngành mũi nhọn, có khả năng cạnh tranh cao. Những doanh nghiệp thuộc các ngành kinh tế mũi nhọn cần được tập trung đầu tư mọi nguồn lực để nâng cao năng lực cạnh tranh, thích ứng với môi trường kinh doanh toàn cầu, trở thành đầu tầu của nền kinh tế. Đối với những doanh nghiệp nhà nước có năng lực cạnh tranh còn thấp kém, không hiệu quả, cần được chuyển đổi hoặc bán, khoán kinh doanh, cho thuê để bảo đảm cho mọi nguồn lực kinh tế được đầu tư vào những lĩnh vực có hiệu quả nhất.
Về Đầu Trang Go down
https://thaont.forum-viet.com
Admin
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 52
Điểm : 2147483645
Danh tiếng : -1
Join date : 09/11/2011
Age : 30
Đến từ : bac ninh

dinh luat luong-chat voi qua trinh gia nhap WTO cua viet nam Empty
Bài gửiTiêu đề: con nua ne   dinh luat luong-chat voi qua trinh gia nhap WTO cua viet nam I_icon_minitimeWed Nov 16, 2011 10:49 am

Còn nữa nè mọi người
I love you I love you THAO-NGOC'S WIFE FOREVER

TIẾN TRÌNH GIA NHẬP WTO - CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC VỚI CHÚNG TA

Bài viết của Thứ trưởng Thương mại Lương Văn Tự, Trưởng đoàn đàm phán Chính phủ về kinh tế và thương mại quốc tế, Tổng Thư ký Ủy ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế.

Năm nguyên tắc lớn của WTO 1
Quá trình đàm phán gia nhập WTO 1
Gia nhập WTO chúng ta có một số cơ hội lớn : 2
Ðàm phán song phương 4
Những thách thức khi gia nhập WTO 8

Năm nguyên tắc lớn của WTO
Hiện nay, WTO có 150 thành viên và 29 thành viên đang đàm phán (trong đó có Việt Nam). WTO là tổ chức thương mại lớn nhất toàn cầu. Liên hợp quốc có 192 thành viên. WTO là 179 thành viên. Số thành viên của WTO hầu như đã là thành viên của Liên hợp quốc. Ðây là sân chơi mà cả thế giới chơi. Nếu chúng ta đứng ngoài thì chúng ta sẽ không tham gia được vào sân chơi điều tiết toàn bộ ngành thương mại thế giới, chiếm 85% thương mại hàng hóa, 90% thương mại dịch vụ toàn cầu. WTO quyết định hoạt động kinh tế, thương mại, đầu tư của toàn cầu. WTO có một bộ nguyên tắc khổng lồ điều tiết toàn bộ hoạt động kinh tế, thương mại, trong đó có năm nguyên tắc lớn: minh bạch hóa chính sách (rõ ràng, minh bạch, cụ thể, dễ dự đoán để giúp các nhà doanh nghiệp nắm được, thực hiện kinh doanh. Nếu nói thông thoáng (không có luật) thì không phải, luật phải rõ ràng, minh bạch, trước khi ra luật mới phải thông báo cho các doanh nghiệp biết và dự đoán được, chuẩn bị làm ăn). Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (đối xử cho nước này không kém hơn đối xử của nước thứ ba). Không phân biệt đối xử. Ðối xử quốc gia (dành cho doanh nghiệp nước ngoài đối xử không kém hơn đối xử doanh nghiệp trong nước). Mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ giúp cho thương mại toàn cầu phát triển, kinh tế phát triển. WTO có khoảng 18 hiệp định lớn và 1 bộ quy tắc. 18 hiệp định: hiệp định về thuế quan (GATT), dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, trị giá hải quan, hiệp định về vấn đề hàng nông nghiệp, chống bán phá giá, chống trợ cấp, hiệp định về cấp phép nhập khẩu, kiểm tra hàng trước khi xếp, kiểm dịch động thực vật, quy tắc xuất xứ, một số hiệp định khác; rào cản thương mại (TBT). Toàn bộ quy tắc gói gọn trong 30 vạn trang. Ðây là bộ quy tắc khổng lồ, giúp điều tiết toàn bộ thương mại toàn cầu.
Quá trình đàm phán gia nhập WTO
Chúng ta đã đàm phán 11 năm với hơn 200 cuộc, trong đó đàm phán đa phương (14 phiên), song phương (28 đối tác); nước nhanh nhất (3 phiên), nước chậm nhất (13 phiên). Ðây là số lượng nhiều nhất trong đàm phán Việt Nam với các tổ chức quốc tế (với ASEAN chúng ta mất hai năm, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ chúng ta mất bốn năm). Sở dĩ chúng ta đàm phán dài như thế chỉ với mục đích sớm gia nhập WTO.
Gia nhập WTO chúng ta có một số cơ hội lớn :
+ Ðây là sân chơi lớn toàn cầu. Việt Nam gia nhập sẽ tăng vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
+ Chúng ta cần thị trường toàn cầu để phát triển kinh tế, thương mại và thu hút đầu tư. Hiện nay, xuất khẩu của chúng ta tăng tương đối nhanh, có năm 23%, có năm 19%, năm 2005 kim ngạch của chúng ta đạt 32,5 tỷ USD. So với các nước trong khu vực thì như vậy là rất nhỏ. Thí dụ: so với Thái-lan, 63 triệu dân, kim ngạch đạt hơn 100 tỷ USD. Chúng ta chỉ bằng 1/3 trong khi dân số là 83 triệu người; nếu so với Philippines, chúng ta bằng 2/3.
Muốn thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh thì kim ngạch xuất khẩu của chúng ta phải đạt 100 tỷ USD trở lên, nhập khẩu phải ở mức tương đương. Hàng hóa và dịch vụ Việt Nam còn bị phân biệt đối xử, khi gia nhập WTO những phân biệt đối xử đó mới được dỡ bỏ. Thí dụ, xuất khẩu các mặt hàng dệt may, giày dép sang châu Âu; vẫn không được hưởng ưu đãi thuế quan đối với nông sản, nên không bán gạo vào châu Âu được. Hàn Quốc bảo hộ gạo, có hạn ngạch, gia nhập WTO chúng ta mới được chia hạn ngạch. Với Hoa Kỳ, không gia nhập WTO chúng ta vẫn bị hạn ngạch dệt may. Nếu gia nhập WTO, chúng ta được dỡ bỏ hạn ngạch dệt may. Gia nhập WTO chúng ta mới dỡ bỏ được rào cản, phân biệt đối xử mà chỉ dành riêng cho các thành viên WTO.
+ Gia nhập WTO chúng ta có hệ thống luật pháp minh bạch, rõ ràng, dễ dự đoán thu hút các nhà đầu tư trong nước, nước ngoài. Vì trong đàm phán WTO chúng ta có hai loại: đa phương và song phương. Với đa phương yêu cầu đầu tiên là phải minh bạch hóa chính sách. Chúng ta đã trả lời hơn 3.000 câu hỏi liên quan chính sách kinh tế, đầu tư, tài chính, ngân hàng. Chính vì vậy mà trong đoàn đàm phán chính phủ của chúng ta đã phải bao gồm tất cả các bộ, ngành tham gia để đảm đương được khối lượng công việc lớn, trả lời nhiều vấn đề liên quan kinh tế, thương mại. Chúng ta phải có chương trình xây dựng pháp luật.
Gia nhập WTO chúng ta phải có các văn bản pháp luật liên quan các hiệp định, các quy định của WTO. Vì vậy, chúng ta có một kế hoạch sửa và xây mới 25 luật và pháp lệnh. Chúng ta sẽ quyết tâm làm bằng được. Quốc hội sẽ dành ưu tiên để trong các phiên họp dành thời gian xây dựng các luật, coi đây là việc trọng tâm của Quốc hội (năm 2005 sửa và xây mới 29 luật, năm 2006 sửa và xây mới 10 luật). Trong toàn bộ các luật và pháp lệnh mà chúng ta cam kết đa phương sẽ sửa và xây mới là 25 luật và pháp lệnh, thì chúng ta đã làm xong 24 luật và pháp lệnh. Còn một văn bản luật, chúng ta đang trong quá trình soạn thảo, dự kiến phiên tháng 10-2006 sẽ hoàn thành. Vậy, Việt Nam là nước đầu tiên có hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh để gia nhập WTO.
Ðể đổi mới kinh tế, cải cách hành chính Việt Nam phải xây mới và sửa đổi 100 luật. Như vậy, số văn bản phục vụ đàm phán, gia nhập WTO chỉ bằng 1/4 số văn bản luật pháp phục vụ cải cách hành chính, và đổi mới kinh tế. Ðiều đó thể hiện quyết tâm cao của Chính phủ, Quốc hội Việt Nam tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Ông Chủ tịch Ban công tác, các thành viên Ban công tác, kể cả đoàn Hoa Kỳ cũng đánh giá rất cao quyết tâm của Việt Nam trong việc sửa đổi hệ thống pháp luật trong thời gian vừa qua.
Chúng ta thấy các nhà đầu tư nước ngoài rất quan tâm đến tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam. Vì họ cho rằng, nếu Việt Nam gia nhập WTO thì hệ thống pháp luật sẽ phù hợp sân chơi của thế giới và nó sẽ ổn định. Chính vì điều đó mà đầu tư nước ngoài năm 2005 tăng hơn rất nhiều so với 2004, sáu tháng đầu năm 2006 tiếp tục tăng. Các dự án đầu tư nước ngoài của Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore,... nhất là dự án lớn bắt đầu vào Việt Nam, kể cả công ty đa quốc gia. Các công ty đa quốc gia có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế và thương mại toàn cầu. Theo thống kê của WTO, trên thế giới có khoảng 70 nghìn công ty đa quốc gia, chiếm 1/3 thương mại toàn cầu. Các nước đều muốn các công ty đa quốc gia đầu tư vào nước mình, vì họ có công nghệ, vốn, thị trường toàn cầu. Không phải họ đầu tư vào một nước là họ vào thị trường nội địa của nước đó, mà họ còn tính cả thị trường khu vực, toàn cầu. Nơi nào có lợi thế hơn sẽ đầu tư vào và xuất khẩu đi các nước khác ở khu vực.
Gia nhập WTO, chúng ta sẽ có điều kiện chủ động tham gia chính sách thương mại toàn cầu. Xu hướng trong WTO, lần đầu trong hội nghị Hồng Kông vừa qua đã đề cập công tác bình đẳng và cân bằng thương mại giữa các thành viên của WTO. Yêu cầu các nước phát triển mở cửa thị trường hàng nông sản, bỏ trợ cấp xuất khẩu để tạo cho thương mại toàn cầu phát triển bền vững và tạo điều kiện cho thương mại phát triển công bằng và không bị bóp méo.
Gia nhập WTO, những tranh chấp được giải quyết tốt hơn: Xu hướng các nước là dùng WTO để giải quyết tranh chấp. Giải quyết tranh chấp trong WTO là dễ thực thi hơn. Thí dụ, một nước A áp thuế chống bán phá giá với một nước thành viên WTO mà tổng thuế đó tương đương với 100 triệu USD, khi WTO giải quyết tranh chấp, đi đến quyết định là kiện chống bán phá giá không đúng, yêu cầu nước kiện kia bỏ đi. Nếu không bỏ, thì nước bị kiện có quyền nâng thuế nhập khẩu các mặt hàng của nước kia lên tương đương mức 100 triệu USD. Do vậy, cơ chế đó thực thi trong cuộc sống nhiều hơn, dễ thực hiện hơn là cơ chế giải quyết tranh chấp qua trọng tài quốc tế và tòa án. Gia nhập WTO không có nghĩa các vụ kiện chống bán phá giá sẽ giảm đi. Chúng ta càng tăng xuất khẩu, thì tranh chấp thương mại sẽ càng tăng. Chỉ có điều mức độ chúng ta sẽ được giải quyết công bằng hơn. Nếu trước đây, năm 1990 chúng ta đạt kim ngạch xuất khẩu 2,4 tỷ USD, nay chỉ trong một tháng, chúng ta đã đạt kim ngạch xuất khẩu hơn 3 tỷ USD. Khi vào WTO, để đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, tăng xuất khẩu, lúc đó chúng ta sẽ đạt đến mức xuất khẩu 100 tỷ USD. Mỗi tháng chúng ta đạt kim ngạch xuất khẩu gần 10 tỷ USD. Như thế, mức độ chúng ta tham gia thị trường thế giới càng tăng, thì các tranh chấp quốc tế về thương mại cũng tăng. Gia nhập WTO không có nghĩa là hết tranh chấp quốc tế về thương mại. Chỉ có điều chúng ta không bị phân biệt đối xử nữa.
Ðàm phán song phương
Gia nhập WTO chúng ta phải tiến hành đàm phán đa phương và song phương. Ða phương là để chúng ta minh bạch hóa các chính sách và đi đến cam kết các chính sách kinh tế vĩ mô. Ði đến cam kết các chính sách kinh tế vĩ mô về đa phương, cho đến nay, cơ bản chúng ta chấp nhận các hiệp định của WTO khi chúng ta gia nhập. Chúng ta bỏ các biện pháp trợ cấp không đúng với quy định của WTO: trợ cấp liên quan tỷ lệ xuất khẩu; tỷ lệ nội địa hóa,... Các trợ cấp mà WTO cho phép chúng ta vẫn thực hiện: trợ cấp liên quan xúc tiến thương mại; đầu tư, du lịch, nâng cao chất lượng hàng hóa, cước phí vận tải,... Một vấn đề quan trọng của vòng đàm phán Doha đó là vấn đề trợ cấp hàng nông sản. Việt Nam là nước rất đặc biệt, đất chật, người đông. Khi đàm phán với Australia thì thấy một hộ của họ có đến 200 ha. Còn bình quân đất canh tác Việt Nam chỉ có 0,3 ha/hộ. Nhưng, Việt Nam lại có nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu được xếp hạng trên thế giới. Ðây là một sự thật: gạo (có lúc xếp thứ 2, có lúc thứ 3 thế giới); cà phê (đứng thứ 2 thế giới), tiêu (số 1 thế giới), điều (số 2 thế giới), chè chúng ta có sản lượng đứng thứ 8 thế giới, hải sản, thủy sản cũng được xếp thứ 8, 9 thế giới. Ðây là trường hợp rất đặc biệt của thế giới. Cho nên, trong đàm phán song phương, nhiều nước Mỹ la-tinh yêu cầu đàm phán là vì thế. Họ cho rằng, Việt Nam có mặt hàng nông sản tràn ngập thị trường thế giới, làm cho các nước Mỹ la-tinh gặp khó khăn, nhất là cà phê. Trước đây, giá cà phê rất cao, bây giờ chỉ còn hơn 1.000 USD/tấn, trong đó có sự tham gia của Việt Nam và nhiều nước khác. Giá trị của một cốc cà phê không đổi. Chỉ có lợi nhuận chuyển từ người trồng cà phê sang người chế biến và tiêu thụ cà phê. Chính vì thế, ông David nói, Việt Nam phải làm thế nào tăng giá trị vào hàng xuất khẩu của mình. Muốn vậy, chế biến chiếm vai trò rất quan trọng. Nếu chúng ta bán 1kg cà phê, tại hội nghị Hồng Kông, báo chí viết giá 1kg cà phê là 1USD. Nhưng khi chế biến 1 kg cà phê để bán cho người tiêu dùng cho vào cốc cà phê, thì giá sẽ lên tới 600 USD. Tất nhiên còn nhân công, vốn,... Chúng ta thấy tại sao cà phê Trung Nguyên phát triển, vì họ tham gia vào chế biến, phân phối tiêu thụ, cho nên lợi nhuận siêu ngạch nằm trong đó. Ðó là phần quan trọng.
Việt Nam khi đàm phán đa phương, chúng tôi lại phải đàm phán cả vấn đề nông nghiệp. Nông nghiệp Việt Nam canh tác lạc hậu, nhưng lại xuất khẩu được nhiều. Ðây là một xu hướng mà tất cả các nước vừa qua đều phải bỏ trợ cấp xuất khẩu khi gia nhập đối với hàng nông sản. Chúng ta cũng phải chấp nhận xu hướng này. Nhưng, 10% đối với hộp xanh (trợ cấp trong nước) thì Việt Nam vẫn được hưởng đầy đủ. Nhưng, đối với Trung Quốc (vì Trung Quốc phát triển hơn Việt Nam) nên mức cam kết của Trung Quốc là 8%. Mức 10%, lâu nay chúng ta sử dụng rất ít. Chúng ta bỏ trợ cấp xuất khẩu, nhưng chúng ta chuyển tiếp vào cho người nông dân, người sản xuất và chế biến nông sản, không trợ cấp vào xuất khẩu nữa. 10% đối với ngành nông nghiệp Việt Nam vào khoảng 11 tỷ USD. Nên nếu 10% chúng ta có 1,1 tỷ USD/năm, để phục vụ hỗ trợ cho nông dân trong nước, mức đó bảo đảm nền nông nghiệp ổn định phát triển trong tương lai.
Những trợ cấp khác mà WTO không cấm thì chúng ta vẫn được sử dụng. Một số thông tin gần đây có đăng gia nhập WTO chúng ta sẽ bỏ hết trợ cấp, điều đó không phải. Chúng ta chỉ bỏ những trợ cấp bị cấm, còn những trợ cấp không cấm thì vẫn được duy trì và thực hiện. Còn đối với trợ cấp trong các lĩnh vực khác liên quan dệt may, chúng ta có Quyết định 55 của Thủ tướng Chính phủ. Khi những người dịch lại cho các cơ quan nước ngoài, phiên dịch không chuẩn. Trong Quyết định số 55, chúng ta nói hỗ trợ các doanh nghiệp để sản xuất hàng dệt và may để xuất khẩu. Nhưng, từ hỗ trợ không có nghĩa là cho không (nhiều người dịch là subsidize - cho không) dẫn đến có sự hiểu lầm. Chúng ta chỉ hỗ trợ vay vốn, Nhà nước chỉ hỗ trợ chênh lệch giữa lãi suất thông thường và lãi suất ưu đãi, tổng cái đó chỉ có năm triệu USD. Khi đàm phán với Hoa Kỳ, phía họ nói Việt Nam trợ cấp bốn tỷ USD cho ngành dệt may. Ðiều đó không phải. Khi chúng ta chứng minh đầy đủ số liệu, đoàn Hoa Kỳ mới cho là đúng. Thứ nhất, vấn đề cấp phép, Việt Nam cấp phép cho tất cả các doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế, kể cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia lĩnh vực dệt may. Thứ hai, chênh lệch, Việt Nam chỉ ưu đãi về lãi suất, trong thời gian qua chỉ có năm triệu USD, như vậy không phải lớn. Nhưng, để thực hiện đàm phán với Hoa Kỳ, Việt Nam đã bỏ Quyết định 55. Hoa Kỳ sẽ bỏ hạn ngạch dệt may đối với Việt Nam. Khi bỏ hạn ngạch dệt may của Hoa Kỳ, thì EU và Canada đã bỏ hạn ngạch cho chúng ta từ năm 2005. Khi gia nhập WTO, toàn bộ dệt may không bị hạn ngạch nữa. Ðây là cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam. Chúng ta cũng phải bỏ một số quy định cấm: nhập khẩu thuốc lá điếu, ô-tô đã qua sử dụng, linh kiện liên quan máy tính. Trên thực tế, cấm nhập ô-tô đã qua sử dụng đã bỏ rồi, vấn đề hiện nay là thuế, làm thế nào bảo đảm quyền lợi người tiêu dùng. Bộ Tài chính đang tiếp tục làm để xử lý vấn đề thuế, vì đây cũng là một trong những vấn đề đáng quan tâm. Chúng ta một mặt cần bảo vệ lợi ích của người sản xuất, đồng thời cũng cần bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng. Phải cân đối hai lợi ích này, chứ không thể chỉ chú ý đến lợi ích của người sản xuất, mà không chú ý đến lợi ích của người tiêu dùng.
Ðàm phán song phương chúng ta đã cơ bản kết thúc với 28 đối tác. Trong đàm phán song phương, Việt Nam đưa ra bản chào số 4, chào đến 99% số biểu thuế. Thí dụ, đàm phán với Hoa Kỳ, tổng số dòng thuế là 9.400 dòng thuế. Còn với các nước, tùy thuộc, có nước 3.000, có nước 5.000, có nước chỉ là 200 dòng thuế. Tùy theo yêu cầu của các nước, biểu 4 chúng ta đã chào mức thuế tương đương với 18% số hàng công nghiệp, nông nghiệp. Từ đó, chúng ta đi đến đàm phán. Trên cơ sở đó chúng ta cơ bản đã kết thúc. Mức thuế trung bình hàng nhập khẩu, hàng nông sản và hàng công nghiệp khoảng xấp xỉ 14%. So với Trung Quốc, khi gia nhập, cam kết mức trung bình 10,4%. Kinh tế Việt Nam mức phát triển thấp hơn Trung Quốc. Cho nên, mức chúng ta cam kết chênh với Trung Quốc là hợp lý.
Trong đàm phán, Oxfarm (một tổ chức phi chính phủ) hỏi, như vậy thì ngành nông nghiệp của Việt Nam liệu có tồn tại và phát triển được không? Hàng hóa sẽ tràn ngập vào thị trường Việt Nam có phải không? Xem chi tiết từng hàng, báo cáo Chính phủ thông báo lại cho các doanh nghiệp. Nhìn tổng thể thấy hàng hóa không tràn ngập, sẽ có nhập khẩu tăng. Chúng ta đã trải qua thử thách trong thị trường mậu dịch tự do ASEAN, mức thuế có lộ trình xuống 0-5%, chúng ta thực hiện lộ trình sát AFTA rồi, nhưng tới bây giờ thị trường có tràn ngập hàng hóa của ASEAN đâu. Gia nhập WTO, thuế chúng ta đang từ mức 18%, giảm xuống 4% nữa, còn khoảng 14%. Như vậy, không có chuyện đó, và xuống đến mức đó thì chúng ta thôi. Trong đàm phán gia nhập WTO, một trong những nguyên tắc khó khăn nhất chúng ta phải vượt qua là để các nước hiểu thực tế Việt Nam và công nhận Việt Nam là nước đang phát triển ở trình độ thấp và nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi. Ở Việt Nam có một nghịch lý, thu nhập bình quân đầu người chưa đầy 1.000 USD/năm, trong lúc WTO quy định những nước kém phát triển là nước có thu nhập dưới 1.000 USD. Nhưng, Việt Nam không được xếp vào nước kém phát triển, vì khi Liên hợp quốc công nhận Việt Nam là nước đang phát triển có cộng thêm các tiêu chí về y tế, văn hóa, giáo dục, nên mới xếp Việt Nam là nước đang phát triển. Về kinh tế thu nhập chúng ta thấp. Cho nên, chúng ta phải thương lượng để được công nhận ở trình độ thấp.
Hai là, nền kinh tế của chúng ta có thời kỳ chuyển đổi, nên có lộ trình giảm thuế, lộ trình chuyển đổi thị trường. Lộ trình giảm thuế lấy mức thuế hiện hành bắt đầu giảm trong vòng 3-5 năm sẽ xuống mức 14%. Tất nhiên, từng mặt hàng có mức cắt giảm khác nhau: xe máy phân khối lớn theo lộ trình chúng ta cắt xuống còn 45% (hiện nay 60%); ô-tô tùy loại mức cắt giảm xuống còn 52% hoặc 47% hoặc 50%. Chúng ta áp mức thuế bảo hộ cho ngành ô-tô, xe máy khá cao. Cho nên trên thực tế mức đó không phù hợp lắm, nếu chỉ bảo vệ cho người sản xuất, thì người tiêu dùng Việt Nam hiện nay chịu mức giá ô-tô cao nhất thế giới. Vì vậy, chúng ta phải giảm thuế, một mặt phải bảo vệ người sản xuất, mặt khác phải cân đối lại lợi ích của người tiêu dùng. Hơn nữa, thực tế các tập đoàn đa quốc gia phân vùng, phân khu vực thành thị trường, cho nên đó cũng là điều kiện. Một số ngành sản xuất trong nước của Việt Nam hiện nay cũng đã phát triển. Cho nên, những ngành đó trong thời gian qua đã thay thế được phần lớn các mặt hàng lâu nay vẫn nhập khẩu. Khi chúng ta mở cửa thị trường, các nhà sản xuất trong nước có sản phẩm rồi. Muốn hay không họ phải giảm chi phí, nâng cao khả năng cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Như thế, chúng ta sẽ có điều kiện đó. Thí dụ, phân đạm chúng ta đã có nhà máy phân đạm, nếu thuế có cao thì nhà máy phân đạm trong nước đã có khả năng cung cấp cho thị trường. Toàn bộ ngành bia, có mở nữa cũng coi như toàn bộ các công ty bia của Việt Nam vẫn cạnh tranh được; hoặc vật liệu xây dựng, xi-măng, thép (chủ yếu thép xây dựng, bắt đầu có đầu tư thép cao cấp), điều kiện kinh tế của Việt Nam bây giờ đã khác xa so với cách đây 15 năm.
Ðối với nông nghiệp, các nước thành viên cũ, mức thuế nông nghiệp khoảng 22%. Nhưng xu hướng các nước mới gia nhập phải giảm thuế nhiều hơn để gia nhập. Vì các nước cho rằng, các nước đã gia nhập phải mất vài chục năm đấu tranh từ GATT để có thành quả như bây giờ. Các nước mới gia nhập nhiều hay ít đều phải đóng góp qua việc cắt giảm thị trường, cắt giảm thuế.
Nhưng, tổng thuế với nông nghiệp, Việt Nam có lợi thế là có nhiều mặt hàng nông nghiệp xuất khẩu. Ðã xuất khẩu được thì cạnh tranh được với thế giới. Chúng ta lo mặt hàng thịt bò, thịt lợn. Chúng ta thấy, thịt bò, thịt lợn là các mặt hàng từ chăn nuôi đơn lẻ, chưa có theo hình thức trang trại. Cho nên, trong đàm phán rất khó khăn. Các nước xuất khẩu thịt bò lớn: Hoa Kỳ, Canada, Australia, New Zealand đều yêu cầu giảm thuế tới 0-5%. Chúng ta trả lời: Bò Việt Nam phần lớn là bò cóc, mỗi hộ nuôi 5-10 con, năng suất thấp, sức cạnh tranh không cao. Giống bò của Việt Nam phần lớn phải nhập khẩu, phần trợ cấp của Nhà nước trong lĩnh vực này hầu như không có. Các nước cũng thấy được khó khăn của Việt Nam và cũng đi đến mức giảm đến 4-5% so với mức thuế hiện hành. Mức 0-5% thì chúng tôi cũng nói thẳng đàn bò cóc Việt Nam chết, không tồn tại. Và chúng tôi gia nhập WTO muốn để ổn định, phát triển, mở cửa, nhưng mức độ phải phù hợp với Việt Nam chứ không phải mở theo bất cứ điều kiện nào. Cuối cùng, các nước cũng phải chấp nhận, ngay cả đàm phán với Hoa Kỳ vấn đề cuối cùng là đàm phán về thịt bò và thịt lợn, thuế nông nghiệp. Chúng tôi phải chấp nhận điều kiện với Hoa Kỳ là cao hơn so với Australia và New Zealand. Sau này cân đối lại biểu thuế sẽ có sự điều chỉnh. Các mức thuế sẽ áp dụng MFN cho nên các nước đều hưởng mức thuế như nhau. Cuối cùng Ban Thư ký sẽ tổng hợp lại.
Ðàm phán song phương là những cuộc đàm phán căng thẳng. Tất cả các đối tác yêu cầu đàm phán đông vì các lý do: họ cho rằng Việt Nam là một thị trường tương lai hứa hẹn, vì Việt Nam có số dân đông thứ 13 thế giới, lao động hơn 40 triệu người, lao động trẻ hơn 30 triệu người. Việt Nam có vị trí thuận lợi cả trên bộ, trên biển, hàng không, là điều kiện cho phát triển thương mại sau này. Việt Nam có điều kiện thuận lợi nữa là chúng ta ổn định về chính trị nhất trong khu vực. Ðây là điều các nhà đầu tư nước ngoài rất quan tâm. Có thể nói, thương mại Việt Nam những năm qua tăng liên tục nhưng tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu chưa phải là lớn lắm. Thí dụ, năm 2005 kim ngạch cả xuất, nhập khẩu mới đạt hơn 60 tỷ USD. Nếu riêng xuất khẩu mới khoảng hơn 30 tỷ USD, chúng ta phải phấn đấu nhiều hơn nữa. Ðàm phán các nước thống nhất như vậy, nhưng nhìn vào tương lai, nhiều nước đòi hỏi được đàm phán. Khi chúng ta đàm phán với Trung Quốc, chúng ta tưởng giữa Việt Nam - Trung Quốc đã có Hiệp định tự do thương mại trong ASEAN, nên không cần đàm phán nữa, nhưng với Trung Quốc vẫn phải đàm phán 10 phiên, rất nhiều phiên căng thẳng, đàm phán suốt đêm, nhiều vấn đề căng: mở du lịch, ngân hàng phụ, mở vận tải đường bộ, nhưng sau đó, chúng ta thấy khi đàm phán phải dựa vào quy định của WTO. Chúng ta thấy về vấn đề đường bộ, trong WTO chưa phát triển, hầu như chưa nước nào cam kết, nên bỏ, ngân hàng phụ thì chúng ta có ngân hàng 100% vốn nước ngoài, chúng ta không thể mở theo kiểu đó được. Cuối cùng, Trung Quốc cũng chấp nhận.
Ðặc biệt, đàm phán sau này với Hoa Kỳ. Hoa Kỳ và EU là các đối tác lớn nhất trong WTO cả về hàng hóa và dịch vụ. Hoa Kỳ và EU đàm phán không phải vì lợi ích của Hoa Kỳ và EU mà vì lợi ích của cả Tổ chức Thương mại thế giới, nên yêu cầu đàm phán rộng hơn, sâu và đa dạng hơn. Ðàm phán như vậy rất phức tạp. Chúng ta cho rằng xong đàm phán song phương (BTA) thì sẽ gần xong việc gia nhập WTO, trên thực chất, có một số vấn đề rất lớn chưa giải quyết được, như hàng dệt may Việt Nam còn hạn ngạch. Mặt khác chúng ta vẫn còn bị luật Jackson vanik hằng năm Quốc hội Hoa Kỳ gia hạn một lần về cơ chế thương mại và chúng ta chưa được hưởng quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR). Vì vậy, để có được PNTR, Hoa Kỳ yêu cầu chúng ta phải có đủ BTA, gia nhập WTO. Hiện nay, chúng ta làm xong cả hai nhiệm vụ đó. Hoa Kỳ đánh giá Việt Nam thực hiện đầy đủ BTA, đồng thời kết thúc đàm phán về gia nhập WTO. Ðó là điều kiện để trình PNTR, chúng ta đang tích cực vận động để Quốc hội Hoa Kỳ thông qua PNTR. Việt Nam mới được hưởng thuế phổ thông, chưa được hưởng thuế ưu đãi GST. Hoa Kỳ dành cho 72-74 nước được hưởng GST không có Việt Nam, cho nên, gia nhập WTO là cơ hội cho chúng ta trong một số vấn đề mà chúng tôi nêu.
Kết thúc đàm phán với Hoa Kỳ có người nói chưa hài lòng, có người nói được nhiều, có người nói được ít. Chúng tôi thống nhất đây là đàm phán mà hai bên đều giành thắng lợi. Trên thực chất, các nhà đàm phán luôn như thể no bụng đói con mắt, thường đòi những điều kiện cam kết rất cao, nhưng nhà doanh nghiệp không cần cái đó. Nhà doanh nghiệp miễn có lợi là làm. Cam kết có cao mấy mà không có lợi thì vẫn không vào. Ðó là sự khác nhau giữa nhà đàm phán và doanh nghiệp. Thí dụ đòi mở ngân hàng như thế chúng ta đã cho chi nhánh 100% vốn, nhưng ngân hàng Mỹ vì chiến lược phát triển của họ nên rút, không ở Việt Nam. Giữa cam kết của nhà đàm phán với doanh nghiệp có khoảng cách. Nếu chúng ta kết thúc đàm phán với Hoa Kỳ mà giành được PNTR, quỹ OPEC, quỹ hỗ trợ ngân hàng EXIMBANK mới hoạt động mạnh. Khi đó quan hệ đầu tư của các nhà đầu tư lớn, xuất khẩu của Hoa Kỳ mạnh hơn. Kim ngạch buôn bán Việt Nam - Hoa Kỳ sẽ tăng trưởng đáng kể trong thời gian tới.
Những thách thức khi gia nhập WTO
Chúng ta kết thúc đàm phán song phương về gia nhập WTO, chúng ta cũng gặp rất nhiều thách thức. Thứ nhất, chúng ta muốn có thị trường toàn cầu thì chúng ta phải mở cửa thị trường cho các nước. Ðây là thách thức lớn nhất. Thứ hai, doanh nghiệp Việt Nam tuy bây giờ có số lượng rất đông 230 nghìn doanh nghiệp nhưng phần lớn là nhỏ và vừa, cho nên năng lực cạnh tranh kém. Ðó cũng là thách thức. Nhưng cũng có điều các doanh nghiệp Việt Nam năng động và cũng chuyển động rất nhanh khi môi trường kinh doanh thay đổi, nhưng lại bị hạn chế bởi vốn, công nghệ và năng lực. Từ đó dẫn tới năng lực cạnh tranh thị trường các mặt hàng của Việt Nam bị hạn chế. Tất nhiên, từng ngành có khác, năng lực cạnh tranh chỉ là tương đối, nay khác, mai khác. Thí dụ, đóng tàu chẳng hạn, trước đây có bao giờ Việt Nam nghĩ là sẽ đóng nhiều tàu biển đâu, nhưng sau khi lợi thế về đóng tàu thay đổi, chuyển từ châu Âu sang Nhật, Hàn Quốc, Trung Quốc, lương công nhân rất cao, thì Việt Nam lại trở thành nơi hấp dẫn đối với ngành đóng tàu trên thế giới. Chúng ta có ưu điểm: công nhân nhiều, nhiều vũng, vịnh kín có thể đóng tàu quanh năm. Ngành may mặc thì lương công nhân ở các nước ASEAN cao, họ sẽ chuyển sang Việt Nam; Thái Lan, Malaysia đang rất thiếu lao động. Malaysia mỗi năm phải nhập khẩu đến ba triệu lao động, Singapore nhập khẩu 0,5 triệu lao động. Các nước khác phải chuyển sang Việt Nam. Ở nước ta, Singapore có hai khu công nghiệp. Họ chuyển các lĩnh vực ít khả năng cạnh tranh sang ta. Ðây là một lợi thế. Chúng ta thấy rằng các doanh nghiệp Việt Nam lại phải chấp nhận sự cạnh tranh như thế. Thứ ba là, rất nhiều chính sách liên quan kinh tế thương mại sẽ thay đổi. Thí dụ phần liên quan trợ cấp cũ mà không phù hợp, WTO sẽ bỏ hạn ngạch, cấp phép, rồi cũng sẽ bỏ hết. Như thế tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp của chúng ta. Nhưng đồng thời làm cho các doanh nghiệp lâu nay dựa vào đó sống và phát triển phải chuyển sang hình thức kinh doanh không được bảo hộ hoặc mức bảo hộ thấp.
Thuế cũng như vậy, Nhà nước giảm thuế cũng tác động một phần đến ngân sách. Phần đóng góp ngân sách từ thuế nhập khẩu mỗi ngày một giảm. Trước kia, thuế nhập khẩu có lúc đến 30% GDP, bây giờ chỉ còn 15%, nhưng kim ngạch buôn bán tăng thì nó tăng. Chúng ta tăng kim ngạch buôn bán để tăng thuế. Hoặc có những cam kết chúng ta đã thực hiện rồi, như trị giá hải quan, chúng ta bỏ thuế mà áp dụng mức thuế tuyệt đối... Các doanh nghiệp nhập khẩu, giá theo giá hợp đồng. Có một số doanh nghiệp ảnh hưởng, nhưng kiểm tra, kiểm soát thì nó đi vào trật tự. Thế giới cũng phải trải qua giai đoạn đó không riêng quốc gia nào. Qua hậu kiểm để bảo đảm thu thuế. Vấn đề an sinh xã hội, sẽ phải giải quyết tình trạng một số doanh nghiệp nhỏ và vừa hoặc không có năng lực cạnh tranh sẽ gặp khó khăn, phá sản. Vậy giải quyết vấn đề trợ cấp, việc làm như thế nào cho lao động các doanh nghiệp này, đào tạo lại để họ tìm việc làm mới. Ðấy là những việc chúng ta phải làm.
Vấn đề nguồn lực, cái quyết định nhất là con người, khi chúng ta mở cửa vấn đề cạnh tranh giành nguồn lực này rất khốc liệt. Chúng tôi hỏi Singapore khi mở cửa sợ nhất cái gì, phía bạn trả lời quan trọng là làm sao giữ được người tài để phục vụ đất nước. Khi các doanh nghiệp nước ngoài vào, các cuộc cạnh tranh sẽ diễn ra, các doanh nghiệp sẽ dùng lương để thu hút người lao động giỏi, cho nên chúng ta, một mặt, cũng phải có chiến lược đào tạo, giữ những người có năng lực làm cho mình, giữ như thế nào tùy vào từng doanh nghiệp, không có bài toán chung cho tất cả. Có nhiều cách khác nhau để giữ người, cổ phần nhất định, lương cao, đối xử, tình cảm,... Muốn hay không Nhà nước phải có chính sách để đào tạo, đào tạo lại người lao động. Hiện nay, tuy Việt Nam có lao động đông, nhưng lao động của chúng ta cũng có một số hạn chế: yếu ngoại ngữ, tác phong công nghiệp. Không chỉ trong lĩnh vực các doanh nghiệp mà cả ở các cơ quan quản lý nhà nước. Thí dụ, Trung Quốc, có hẳn một chỉ thị, đối với cán bộ lãnh đạo quận, huyện, các tỉnh biên giới gần Việt Nam phải biết tiếng Việt. Cho nên, khi chúng ta sang đó họ nói tiếng Việt rất thạo. Vấn đề là cán bộ quản lý Việt Nam phải biết ngoại ngữ. Mặt khác, phải chuyển cách quản lý theo phong cách mới. Ngày xưa quản bằng các lệnh, chỉ thị, can thiệp trực tiếp vào các doanh nghiệp, thì nay không còn, còn rất ít, chỉ còn những doanh nghiệp có vốn lớn của Nhà nước, quản lý thông qua biện pháp gián tiếp như xây dựng pháp luật, chính sách và kiểm tra đôn đốc việc thực hiện đó. Việc nắm từng ngành, hàng, không giống như trước, nhưng vẫn phải nắm. Khi chúng ta bỏ quản lý xuất khẩu gạo, lúc đầu mọi người rất ngại, sợ có thể xuất vượt, đến khi quyết định làm thì làm rất tốt. Mọi thành phần có thể xuất khẩu gạo được, nhưng chúng ta vẫn quản lý được vì mọi công việc giao cho hiệp hội. Hiệp hội đóng vai trò chính. Hiện nay, Nhà nước chuyển những vai trò mà Nhà nước không làm sang hiệp hội ngành hàng để bảo vệ ngành hàng, hợp tác liên kết để phát triển. Các cách làm cũ giành khách hàng bằng hạ giá không còn giá trị, làm ta yếu đi. Vai trò của hiệp hội, ngành hàng rất quan trọng. Liên kết để phát triển để xây dựng hệ thống phân phối trong nước. Các doanh nghiệp liên kết để ra thị trường thế giới, liên kết doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Chúng ta cần liên kết với nhau để tạo sức mạnh cho nhau và phát triển. Hiện nay, thị trường trong nước còn rất nhiều điều kiện phát triển. Có nhiều sinh viên Việt Nam sang học thạc sĩ ở Hoa Kỳ rất giỏi, có những trường Hoa Kỳ giữ lại, số đó vẫn về Việt Nam vì họ thấy cơ hội làm ăn ở Việt Nam nhiều hơn ở Hoa Kỳ. Hoa Kỳ đã phát triển tới mức độ rất cao. Muốn làm ăn ở Hoa Kỳ phải có vốn, mạng lưới mới sống được, nhưng về Việt Nam có rất nhiều cơ hội.
Ðấy cũng là những thách thức, nhưng nếu chúng ta biết vượt lên chúng ta sẽ phát triển. Khi làm việc với hãng Nokia, thấy chiến lược nhờ đó mà họ trở thành công ty điện thoại di động số 1 thế giới, họ coi tất cả những thách thức là cơ hội mới, cuộc sống không có thử thách thì không có cuộc sống. Họ coi thách thức là một cơ hội, khi họ vượt qua được thì họ trở thành số 1. Chúng tôi cho rằng gia nhập WTO chúng ta có rất nhiều thời cơ, cũng có rất nhiều thách thức. Cơ hội đó có hay không phải do chính sách, do các doanh nghiệp. Nói mở thị trường hay không thì toàn bộ doanh nghiệp không sản xuất hàng xuất khẩu thì cũng vô nghĩa. Bây giờ nói mở ra để thu hút đầu tư nhưng toàn bộ doanh nghiệp, các địa phương, không thu hút đầu tư thì chúng ta cũng không đạt. Gia nhập WTO để chúng ta phát triển, nhưng không có nghĩa bản thân việc gia nhập WTO là chúng ta giàu có lên, hay chúng ta nghèo đi, mà đó là một cơ hội. Chúng ta tranh thủ được cơ hội đó, thì chúng ta giàu có. Chúng ta vượt qua được thách thức thì chúng ta tạo được cơ hội mới. Ðó là một thực tế. Nếu tranh thủ được thời cơ này, và chấp nhận để vượt qua thách thức này, chúng ta sẽ đưa nền kinh tế phát triển lên trình độ cao hơn, nhưng cũng đòi hỏi sự cố gắng của tất cả các bộ, ngành, nhất là sự lao động sáng tạo, liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp Việt Nam để chúng ta mạnh lên và phát triển nhanh hơn.
Về Đầu Trang Go down
https://thaont.forum-viet.com
Admin
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 52
Điểm : 2147483645
Danh tiếng : -1
Join date : 09/11/2011
Age : 30
Đến từ : bac ninh

dinh luat luong-chat voi qua trinh gia nhap WTO cua viet nam Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: dinh luat luong-chat voi qua trinh gia nhap WTO cua viet nam   dinh luat luong-chat voi qua trinh gia nhap WTO cua viet nam I_icon_minitimeWed Nov 16, 2011 10:50 am

HJHJHJ
Về Đầu Trang Go down
https://thaont.forum-viet.com
Sponsored content





dinh luat luong-chat voi qua trinh gia nhap WTO cua viet nam Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: dinh luat luong-chat voi qua trinh gia nhap WTO cua viet nam   dinh luat luong-chat voi qua trinh gia nhap WTO cua viet nam I_icon_minitime

Về Đầu Trang Go down
 
dinh luat luong-chat voi qua trinh gia nhap WTO cua viet nam
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Tài liệu JavaScript ( Tiếng Việt )
»  Hướng dẫn tạo forum Tiếng Việt, miễn phí, dễ dàng với Forumotion

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
**..Chia sẻ kinh nghiệm..** :: HỖ TRỢ-
Chuyển đến